Việt Nam, thiên đường cho các giảng viên?
Theo Báo Tia sáng
Pierre Darriulat |
Giờ thực hành của sinh viên trường ĐH Hải Phòng
Trên
nhiều lĩnh vực, chúng ta có thể kể ra những sáng kiến thành công đáng
được khích lệ. Nhưng trước hết chúng ta cần đối diện với hiện thực bằng
tâm trí và cái nhìn rộng mở, suy xét kỹ lưỡng trước khi đưa ra những
nhận xét “trái với cảm nhận chung của xã hội”.
Gần đây, tôi đọc trên Vietnamnet một bài báo đăng ngày 3/11 1
đề cập sự phát triển nhanh chóng của giáo dục đại học Việt Nam, khởi
đầu từ khi mở cửa một số đại học tư vào năm 1989 và khẳng định rằng hiện
nay giảng viên “giỏi” ở Việt Nam có khả năng kiếm được thu nhập nhiều
tới mức cho phép mức sống của họ cao hơn nhiều đồng nghiệp ở một số nước
phát triển. Bài báo để lại ấn tượng rằng các giảng viên đại học “giỏi”,
dù cho nội hàm của khái niệm này có là thế nào đi chăng nữa, đang có
mức sống tốt, và vấn đề lương thấp của giới học thuật ngày nay đã thành
chuyện quá khứ. Họ cho đây là dấu hiệu của sự tiến bộ và khẳng định nạn
chảy máu chất xám từng rất trầm trọng trong thập niên chín mươi, nay có
nhiều tín hiệu khả quan theo chiều ngược lại.
Thật
tuyệt vời phải không? Chúng ta bây giờ đã có thể yên tâm và thoải mái.
Những lo phiền trước kia nay không còn nữa, và phát biểu gần đây của Bộ
trưởng Bộ KH&CN cũng trở nên lạc hậu: “Chừng nào chúng ta chưa
quan tâm đến cuộc sống, thu nhập của những người làm khoa học, chưa mạnh
dạn thay đổi nếp quản lý theo cơ chế cũ thì chừng đó chúng ta chưa thể
có được sự phát triển đột biến trong KH&CN."2
Có
lẽ các bạn bè của tôi là những người chưa đủ “giỏi” hoặc tôi đang sống
nhầm chỗ nên chỉ biết những giáo sư, giảng viên, nghiên cứu viên, và
sinh viên, mà vấn đề nghiêm trọng của họ là thu nhập thấp, không đủ để
họ có thể dành toàn bộ thời gian và tâm sức cho công việc của mình. Họ
phải dạy số giờ nhiều gấp đôi thời lượng mà một giảng viên thông thường
có thể dạy một cách có chất lượng. Họ buộc phải bỏ thời gian vào những
hoạt động kiếm thêm thu nhập gây ảnh hưởng tới nhiệm vụ giảng dạy và
nghiên cứu. Tôi được biết có rất nhiều sinh viên ra nước ngoài du học
rồi không trở về vì không tìm thấy cơ hội việc làm đủ sức hấp dẫn ở
trong nước.
Thông điệp mà bài
báo đưa ra hoàn toàn trái ngược với thực tế. Thấy cây mà không thấy
rừng, bài báo che đi sự thật bằng cách nhấn mạnh vào một số ví dụ thiếu
tính đại diện cho tình hình chung ở Việt Nam. Tôi cảm thấy đưa ra một
thông điệp như vậy là thiếu trách nhiệm, trong bối cảnh cải thiện chất
lượng giáo dục đại học đang là vấn đề hết sức cấp bách mặc dù giáo dục
đại học ở Việt Nam có một số điểm sáng mà bài báo đã nêu.
Thứ
nhất, các đại học tư có lẽ đã thành công trong đào tạo những ngành như
quản trị doanh nghiệp, tiếp thị, ngân hàng, quản lý, và những lĩnh vực
tương tự khác mà lâu nay được coi là thời thượng không chỉ ở Việt Nam mà
cả khắp nơi trên thế giới. Ngoài ra, các trường tư cũng đóng vai trò
tích cực như là những trường nghề trong việc đào tạo các kỹ thuật viên.
Nhưng nhìn chung, họ không thể thay thế vai trò của các đại học công lập
trong đào tạo các ngành khoa học tự nhiên, xã hội và nhân văn, y dược -
những lĩnh vực được coi là sân chơi của trường công. Chỗ đứng nào nên
dành cho các đại học tư là một vấn đề xã hội liên quan đến những câu hỏi
quan trọng như đem lại cơ hội bình đẳng cho sinh viên, mức học phí,
tuyển chọn giảng viên, giá trị bằng cấp, số lượng sinh viên được đào tạo
trong các ngành khác nhau, đặc biệt là trong nhóm ngành dịch vụ, v.v.
Tôi không phải là chuyên gia để bàn về những vấn đề trên, nhưng rõ ràng
chúng ta sẽ phải trả lời các câu hỏi này khi phân tích nghiêm túc vai
trò và thành công của các đại học tư trước khi bàn về thu nhập của giảng
viên tại những trường này.
Thứ
hai là về các trung tâm xuất sắc, đây là một sáng kiến đáng khích lệ ở
khía cạnh chúng có thể trở thành những hạt giống cho sự tiến bộ trong
tương lai và những giá trị của chúng có thể được nhân rộng. Việc Đại học
Quốc gia TP HCM thành lập một đại học quốc tế rõ ràng là bước đi đúng
hướng mà Hà Nội và các địa phương khác nên làm theo. Nhưng chúng ta cần
xem xét kỹ những kinh nghiệm từ mô hình này để có thể triển khai các
sáng kiến tương tự trong tương lai một cách hiệu quả nhất.
Các
đại học được coi là xuất sắc, gồm một số trường liên kết với Đức, Pháp
(Đại học KH&CN Hà Nội), hay về sau là với Nhật Bản và Mỹ, là những
sáng kiến đáng trân trọng. Tuy nhiên, vẫn còn quá sớm để đánh giá thành
tựu của những trường này bởi chúng chỉ mới được thành lập chưa lâu.
Những đại học này đang phải đối diện với không ít thách thức không dễ
vượt qua. Chẳng hạn, chúng đang bị xem là được ưu đãi không công bằng,
khi được phép cấp bằng cử nhân chỉ sau ba năm đào tạo thay vì bốn hoặc
năm năm như với ba trường đại học lớn về khoa học khác ở Hà Nội, và có
khả năng được cấp bằng tiến sỹ mà không phải thực hiện nhiều bước như
quy định hiện hành đối với các trường khác ở Việt Nam. Quan trọng hơn,
các trường này cần phải tuyển dụng cán bộ người Việt không chỉ trong các
phòng ban quản lý hành chính và hậu cần mà cả trong đội ngũ cán bộ
giảng dạy và nghiên cứu. Hiện nay, Đại học KH&CN Hà Nội (USTH) không
hề có giảng viên cơ hữu, chỉ có giảng viên tạm thời và đa số giảng viên
có quốc tịch Pháp. Các giảng viên tạm thời người Việt được trả khoảng
30 USD/giờ, cao hơn đáng kể so với mức trả ở các đại học công lập Việt
Nam, nhưng họ chỉ thường dạy một môn học mỗi năm, tương đương 30 giờ
dạy, tức là thu nhập dưới 1.000 USD/năm, thấp hơn nhiều so với số liệu
rất cao mà bài báo nêu trên đưa ra.
Chúng
ta nên trả lương giảng viên ra sao là một vấn đề quan trọng. Nó đặt ra
vấn đề về chất lượng giảng viên. Rõ ràng chúng ta nên trả lương cho
những người dành thời gian ở nhà chuẩn bị giáo án - điều mà các giảng
viên tốt thường làm - cao hơn so với những người đơn thuần chỉ đọc cho
sinh viên chép những nội dung sẵn có trong sách giáo khoa. (hiện nay với
những người dành thời gian ở nhà chuẩn bị giáo án, mức lương 30 USD/giờ
tương đương với 15 USD/giờ dạy trên lớp, là con số chấp nhận được). Bên
cạnh đó, cũng nên quan tâm tới cách thức đánh giá chất lượng giảng
viên, hay vấn đề cấp bằng “habilitation” 3 như thông lệ chung ở nhiều nước trên thế giới.
Điều
rất đáng quan tâm là phần nhiều thu nhập của các giảng viên được dẫn
chứng trong bài báo đến từ các đề tài nghiên cứu, có thể từ Quỹ NAFOSTED
hoặc các nguồn tài trợ dồi dào hơn. Các chính sách này đáng được hoan
nghênh, là nhân tố quan trọng cho tiến bộ về giảng dạy và nghiên cứu ở
Việt Nam. Nhưng như chúng ta đã biết, chúng cũng có thể mang lại những
tác động tiêu cực, ví dụ như khuyến khích các nhà khoa học đề xuất nhiều
dự án tốn kém, gây lãng phí, hoặc khuyến khích họ đăng ký tên mình trên
thật nhiều đề tài, dự án. Chúng ta lẽ ra nên hướng tới hình mẫu những
vị giáo sư đã có đủ thu nhập từ lương của họ để dành hết thời gian và
tâm sức cho nghiên cứu và giảng dạy, thay vì trở thành một người chuyên
làm ăn và “giỏi” thu vén lợi ích riêng từ cơ chế, chính sách của nhà
nước.
Cải thiện chất lượng đại
học trong nước là một vấn đề quan trọng và dài hạn, và là một thách thức
lớn. Nó cần sự quan tâm nghiêm túc từ những người có trách nhiệm để có
thể đào tạo được một thế hệ người lao động mới có đủ năng lực trong mọi
lĩnh vực mà đất nước đang cần để phát triển: những kỹ sư có khả năng vận
hành nhà máy điện nguyên tử, thiết kế và chế tạo các thiết bị điện tử
hiện đại; những kiến trúc sư có khả năng thiết kế môi trường đô thị cho
tương lai; những bác sỹ phục vụ cho hạ tầng y tế thiết yếu của đất nước;
những nhà khoa học có năng lực hiện đại hóa nông nghiệp và bảo vệ môi
trường, v.v.
Trên nhiều lĩnh
vực, chúng ta có thể kể ra những thành công đáng được khích lệ. Nhưng
trước hết chúng ta cần đối diện với hiện thực bằng tâm trí và cái nhìn
rộng mở, suy xét kỹ lưỡng trước khi đưa ra những nhận xét “trái với nhận
thức chung của xã hội” như cách viết của các tác giả bài báo. Chúng ta
cần đánh giá sự tiến bộ dựa trên kết quả thu được. Hãy bỏ đi thói quen
dành quá nhiều thời gian cho những bảng xếp hạng như Pisa, Thượng Hải,
hay các nghiên cứu cùng loại với nghiên cứu của FPT được sử dụng trong
bài báo, hoặc cố tình làm lệch lạc ý nghĩa thực chất của chúng. Chúng ta
có những nhiệm vụ quan trọng hơn trước mắt để làm, và có những cách
hiệu quả hơn để sử dụng chất xám và thời gian của mình.
Phạm Trần Lê dịch
-------------------------------------------------
Chú thích:
1
Đàm Quang Minh và Phạm Hiệp, Thu nhập giảng viên cao nhất lên đến hơn 1
tỷ đồng/năm, Vietnamnet, 3/11/2014,
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/205223/thu-nhap-giang-vien-cao-nhat-len-den-hon-1-ty-nam.html.
2 http://khoahocvacongnghevietnam.com.vn/khcn-trung-uong/5968-ton-vinh-va-chia-se.html
3 Cho phép người được cấp bằng hướng dẫn nghiên cứu sinh; muốn có học hàm Giáo sư phải có bằng này