Theo
blog của GS Nguyễn Văn Tuấn
Tuần
vừa qua, báo soha.vn gửi một loạt câu hỏi và có nhã ý mời tôi trả lời. Lần đầu
tiên tiếp xúc với soha.vn, mà tôi hoàn toàn chưa nghe đến trước đây, và cũng
trong tình trạng bận rộn chuẩn bị cho chuyến công tác sắp tới nên cũng phân vân
chưa dám nhận lời. Nhưng thấy họ làm việc cũng professional nên cảm thấy yên
tâm, và câu hỏi cũng hay nên thấy cũng xứng đáng tiêu thì giờ bàn chuyện. Thế
là tối về trả lời một mạch. Kèm theo đây là những câu hỏi và trả lời.
1-
Thưa Giáo sư, ông đã từng nói có một sự “sòng phẳng của lịch sử” trong đó công
lý phải được tôn trọng. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều y bác sỹ quá coi nhẹ tính
mạng của con người. Chất độc dioxin có thể không còn được sử dụng ở Việt Nam
nữa, nhưng những “mũi tiêm độc” thì vẫn còn, giết chết nhiều sinh mạng. Liệu sự
vô tâm, bất cẩn của người làm ngành y có thể bị coi là một tội ác?
Nguyễn Văn Tuấn
(NVT): Tôi nghĩ có nhiều khác biệt giữa
câu chuyện dioxin (hay chất độc da cam) và những “tai nạn” y khoa trong thời
gian gần đây. Chuyện dioxin xảy ra trong thời chiến và nó được sử dụng như là
một phương tiện có chủ đích là khai quang. Còn các tai nạn y khoa xảy ra gần
đây phần lớn là do chểnh mảng và kém ý thức, chứ không có chủ đích gây hại.
Chẳng hạn như vụ tiêm vắc-xin dẫn đến tử vong cho hàng loạt trẻ em là một tai
nạn lớn và rất nghiêm trọng, nhưng tôi nghĩ không một ai làm việc phòng chống
bệnh cố ý gây tác hại đến cộng đồng cả.
Những bất cẩn, hay
tôi gọi là “chểnh mảng”, rất đáng lên án, nhưng tôi không muốn nghĩ đến như là
tội ác. Ở nơi tôi đang làm việc, chểnh mảng trong công việc để gây thương tật
hay tử vong cho người khác được xem là một tội hình sự. Luật pháp về an toàn ở
Úc rất nghiêm ngặt. Mỗi tuần chúng tôi đều có nhiệm vụ kiểm tra và cảnh giác
những người công tác trong viện về an toàn; nếu người dưới quyền tôi để cho tai
nạn nghiêm trọng xảy ra, thì tôi là người bị mất chức đầu tiên, và sau đó là
viện trưởng chứ không phải là người cộng sự của tôi. Tôi có cảm giác là ở Việt
Nam người ta chưa có những qui trình về an toàn trong viện, hay có thì cũng
chẳng ai quan tâm. Ngay cả việc kiểm soát nhiễm trùng bệnh viện là điều hết sức
cơ bản mà hầu hết các bệnh viện ở VN đều chưa đạt chuẩn mực. Do đó, tai nạn có
thể xảy ra đây đó là một điều không khó hiểu; khó hiểu chăng là những tai nạn
này xảy ra hết năm này đến năm khác.
2- Thưa Giáo
sư, tôi không biết ở Úc thì ra sao, nhưng ở Việt Nam thì thời gian đào tạo sinh
viên y khoa dài hơn các ngành học khác. Có ý kiến cho rằng, do thời gian đào
tạo dài và tốn kém nên sinh viên sau khi ra trường đã cố gắng tìm mọi cách để
"thu hồi vốn", bất chấp y đức... Ý kiến của ông về vấn đề này như thế
nào?
NVT: Thời gian đào tạo bác sĩ ở đâu cũng tương đương
nhau. Nếu tuyển thẳng từ trung học thì thời gian là 5-6 năm; nếu tuyển từ những
người đã có bằng cử nhân thì thời gian là 4 năm. Tuy nhiên, thời gian đào tạo
bác sĩ chuyên khoa ở VN thì ngắn so với nước ngoài. Thật ra, hệ thống đào tạo
bác sĩ chuyên khoa ở VN cũng rất khác với các nước trong vùng Đông Nam Á và
trên thế giới. Chương trình học cũng khác. Sinh viên y khoa nước ngoài không
học các môn học về chính trị và triết, thay vào đó họ học về khoa học xã hội và
y đức.
Tôi không thấy
bằng chứng gì về tương quan giữa thời gian đào tạo và y đức. Bác sĩ ở các nước
như Úc và Mĩ trước khi hành nghề phải qua đào tạo ít nhất 9 năm, và tốn khá
nhiều tiền, nhưng họ không có “tai tiếng” về đạo đức như đồng nghiệp bên Việt
Nam. Y đức bao gồm những qui ước và nguyên tắc về quan hệ giữa người thầy thuốc
và bệnh nhân. Y đức có khi thay đổi đôi chút tùy theo văn hóa điạ phương và
thời gian, nhưng bản chất và nguyên lí thì vẫn không thay đổi: không làm hại
bệnh nhân. Do đó, tôi nghĩ thời gian đào tạo và y đức là hai khía cạnh rất khác
nhau.
3- Ở các nước
phát triển, thu nhập của các bác sĩ là tương đối cao, và đó là thu nhập hoàn
toàn minh bạch. Còn ở Việt Nam, thu nhập được coi là minh bạch của bác sĩ (như
tiền lương) lại khá thấp. Giáo sư có cho rằng đồng tiền là yếu tố quyết định sự
tồn vong của y đức? Và bác sĩ phương Tây dễ “giữ mình” hơn vì họ được trả lương
cao hơn?
NVT: Nếu tính bằng đơn vị tiền tệ tuyệt đối (như USD
chẳng hạn) thì thu nhập của bác sĩ ở nước ngoài tương đối rộng rãi (chứ không
phải cao như nhiều người nghĩ) so với đồng nghiệp ở Việt Nam. Nhưng nếu tính
tương đối và điều chỉnh cho chi phí và điều kiện kinh tế địa phương thì tôi
nghĩ sự khác biệt giữa hai nhóm không cao như nhiều người tưởng.
Nhiều người than
phiền rằng lương bác sĩ VN quá thấp, và tôi cũng thấy như thế. Thật ra, tôi có
lần nói rằng chưa có nơi nào trên thế giới có những qui định về đồng lương cho
bác sĩ kì quặc như ở VN, và tôi xem đó là một hình thức khinh thường bác sĩ.
Tuy nhiên, tôi thấy ở các thành phố lớn, bác sĩ ở VN giàu hơn bác sĩ nước
ngoài, và đó là một thực tế. Có thể ghé qua những bệnh viện lớn (như Bạch Mai
chẳng hạn), chúng ta sẽ thấy bác sĩ ở đó giàu như thế nào, và họ cũng thường
hay đi nước ngoài. Do đó, trong thực tế một bộ phận bác sĩ ở VN không hề nghèo
như nhiều người than phiền.
Theo tôi thấy thu
nhập thấp có thể làm cho người thầy thuốc nhắm mắt làm lơ các qui chuẩn về y
đức, nhưng đồng tiền chắc chắn không phải là yếu tố duy nhất chi phối đến y
đức. Tôi biết nhiều bác sĩ ở VN tuy thu nhập không cao và cũng chẳng có xe hơi,
nhưng họ không hề làm gì đi ngược lại lời thề Hippocrate và vi phạm y đức. Vẫn
còn nhiều người thầy thuốc “nghèo cho sạch, rách cho thơm”. Do đó, tôi nghĩ
không phải chỉ đồng tiền, mà là cái tâm nó chi phối đến y đức.
4-Thưa Giáo sư,
tôi đọc những bài viết của Giáo sư, thấy nhiều bài rất hay nói về các chức danh
trong khoa học. Ở Việt Nam hiện nay, nói riêng trong ngành y thì hình như cứ
làm lãnh đạo là đều có học hàm, học vị Giáo sư, Tiến sỹ gì đó… Theo ông, đó có
phải là một sự lãng phí không (lãng phí về tay nghề chuyên môn, về chức danh,
hay lãng phí vị trí lãnh đạo đó…)? Tiêu chuẩn để lựa chọn lãnh đạo trong ngành
y ở Úc là gì, thưa ông?
NVT: Ở Việt Nam có một xu hướng thú vị là người ta đặt ra
những tiêu chuẩn về học vị và học hàm cho những chức danh hành chính và quản
lí. Do đó, hệ quả là nhiều bác sĩ phải đi học để có những văn bằng như tiến sĩ,
và phấn đấu để có học hàm như giáo sư, phó giáo sư. Văn bằng tiến sĩ và các
chức danh học thuật đó chủ yếu là thuộc về lĩnh vực học thuật và nghiên cứu
khoa học. Thế nhưng ở Việt Nam, văn bằng tiến sĩ và học hàm đó là cứu cánh
nhưng cũng là phương tiện để họ tiến vào những vị trí quản lí hay nói nôm na là
“làm quan”. Xu hướng làm quan này làm phí nhân lực cho nghiên cứu khoa học. Hệ quả
là VN có rất ít công trình nghiên cứu y khoa trên các tập san y khoa quốc tế.
Ngay cả số công trình trên các tập san quốc tế thì phần lớn (gần 90%) là do
ngoại lực chứ không phải nội lực. VN có nhiều giáo sư, tiến sĩ trong ngành y,
nhưng đóng góp cho khoa học thì còn rất khiêm tốn.
Ở Úc, tiêu chuẩn
lãnh đạo còn tuỳ thuộc vào uy danh của trường hay bệnh viện. Tôi có thể nói ở
viện tôi (Viện Y khoa Garvan) thì tiêu chuẩn tuyển lãnh đạo khá rõ ràng: đó là
người có viễn kiến (vision) và chiến lược để thực hiện viễn kiến đó; phải chứng
minh được có khả năng lãnh đạo và quản lí; phải có một thành tích nghiên cứu
xuất sắc đứng vào hạng 1% trong chuyên ngành trên bình diện thế giới. Đó là
những tiêu chuẩn về chiến lược, kĩ năng lãnh đạo, và thành tích khoa học. Nhưng
tôi nghĩ rất khó so sánh hay áp dụng tiêu chuẩn của các nước phương Tây cho
Việt Nam vì những khác biệt về trình độ khoa học, môi trường văn hoá, môi
trường học thuật, và thể chế.
5- Theo ông,
những “căn bệnh” nguy hiểm nhất của y tế Việt Nam hiện nay là gì? Cội rễ của
những căn bệnh này là do đâu? Có “thuốc” nào chữa trị dứt điểm được không?
NVT: Tôi phải nói trước rằng tôi không làm việc trong
nước nên chỉ có thể nói theo cái nhìn của người ngoài cuộc, và có thể cái nhìn
đó không chính xác, thậm chí sai. Theo tôi, ngành y tế ở trong nước có những
vấn đề nổi cộm: quá tải, chi phí điều trị cao so với thu nhập, và đạo đức nghề
nghiệp. Tình trạng quá tải đã xảy ra khá lâu, nhưng cho đến nay vẫn chưa được
khắc phục. Chi phí điều trị ở VN tuy còn thấp nếu tính bằng đôla, nhưng không
thấp đối với người nghèo. Giá thuốc ở VN có thể nói là khá cao so với nước
ngoài. Tôi đã từng biết có người tự tử chết vì cái toa thuốc chưa đến 1 triệu
đồng. Còn vấn đề y đức thì đã quá phổ biến đến nổi mở bất cứ tờ báo nào, theo
dõi bất cứ diễn đàn nào, chúng ta cũng đều thấy đề cập đến vấn đề đạo đức trong
ngành y.
Hệ quả là ngành y
đánh mất sự tin tưởng ở một bộ phận lớn công chúng. Những người có điều kiện
tài chính đều chọn điều trị ở nước ngoài. Ngay cả một số quan chức cao cấp cũng
được điều trị ở bệnh viện nước ngoài. Câu hỏi “do đâu” là một câu hỏi đắt giá,
và khó có thể nói đầy đủ trong một bài viết. Tôi nghĩ “trái tim” của bất cứ vấn
đề gì là con người. Khi nói “con người” tôi muốn nói đến hai khía cạnh: chuyên
môn và phẩm chất. Có thể nói rằng sự phát triển ngành y và chất lượng đào tạo
trong ngành y không/chưa theo kịp sự gia tăng về nhu cầu sức khỏe.
Một yếu tố tôi
nghĩ đến là năng lực quản lí. Rất dễ dàng thấy mỗi khi có “sự cố” xảy ra, thì
các quan chức thường hành xử bằng thanh tra và … chỉ thị. Chỉ thị qua công văn
trên giấy tờ. Cấp trên cho rằng họ đã chỉ thị cấp dưới, và cấp dưới lại chỉ thị
cho cấp thấp hơn, v.v. cuối cùng chúng ta thấy người làm thực tế thì ít mà
người chỉ thị thì khá nhiều. Hình như người ta cho rằng đã ra chỉ thị hay đã ra
nghị định gì đó là xong phần việc của họ, còn thực hiện hay không là chuyện
khác. Đó là một mô hình, một loại tư duy quản lí rất lạ lùng.
6- Thưa Giáo
sư, nếu quy trách nhiệm về hiện trạng ngành y Việt Nam hiện nay (sau hàng loạt
bê bối như nhân bản kết quả xét nghiệm ở bệnh viện Hoài Đức, sai sót khi tiêm
vắc xin khiến trẻ tử vong) cho một số cá nhân thì có chính xác không? Theo ông,
chỉ thay đổi một vài cá nhân thì có thay đổi được hiện trạng không?
NVT: Tôi nghĩ mỗi sự việc đều có nguyên nhân đặc thù đằng
sau mà có lẽ người ngoài như chúng ta khó mà biết được. Vụ “nhân bản xét
nghiệm” có thể đã xảy ra từ lâu và ở nhiều nơi, nhưng chỉ mới bị phát hiện ở
một bệnh viện. Đó là cách mà người ta “làm tiền” bảo hiểm. Cũng có thể xem đó
là một hình thức ăn cắp một cách có hệ thống, và người bệnh chính là nạn nhân
vì người bệnh chi trả cho các phí tổn đó.
Vụ tiêm vaccine
dẫn đến tử vong cho vài trẻ em thì quả là một “tai nạn” rất nghiêm trọng.
Nghiêm trọng là vì dẫn đến tử vong cho cả chục trẻ em. Ấy thế mà có người xem
đó là một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được. Thật là khó hiểu và khó chấp
nhận lí luận “rủi ro có thể chấp nhận” khi hàng chục trẻ em chết vì tiêm
vaccine hay tiêm nhầm vaccine!
Những sai sót hay
tai nạn vừa đề cập xảy ra là đáng tiếc, nhưng tôi nghĩ không nên tập trung vào
những cá nhân. Nói ví von một chút, ở Mĩ, khi một đội bóng đá của trường đại
học thắng, người ta tìm một nhân vật tiêu biểu để vinh danh; nhưng khi đội bóng
đá thua trận thì người ta cấm tuyệt đối không đổ thừa cho cá nhân, mà phải xem
xét lại qui trình tại sao dẫn đến thua trận. Tương tự, khi tai nạn xảy ra chúng
ta cần phải xem xét lại hệ thống và qui trình, chứ không phải cá nhân. Hệ thống
quản lí như thế nào mà để ra vụ nhân bản xét nghiệm. Qui trình tiêm chủng như
thế nào để cho nhầm lẫn vaccine. Đó là những câu hỏi chưa có câu trả lời. Dĩ
nhiên, việc truy tìm cá nhân và qui trách nhiệm sẽ làm cho nhiều người hài lòng
vì tâm lí “tôi không có lỗi, họ có lỗi”, nhưng sẽ không giải quyết vấn đề đến
nơi đến chốn.
7- Thưa Giáo
sư, ở Úc, khi đi khám chữa bệnh, người gốc Việt được đối xử như thế nào? Có sự
kỳ thị nào không? Có chuyện phân biệt bệnh nhân giàu - bệnh nhân nghèo không?
Chất lượng phục vụ ở bệnh viện công và bệnh viện tư có khác gì nhau không?
NVT: Ở Úc, không bao giờ có sự phân biệt sắc tộc, hay
giới tính, thành phần kinh tế, hay bất cứ khía cạnh nào trong các dịch vụ y tế.
Rất hiếm thấy có chuyện quan chức được ưu tiên hơn thường dân. Người được thay
tim đầu tiên là một cô gái thuộc giai cấp lao động. Phân biệt đối xử ở Úc có
thể xem như là một tội phạm. Rất khó so sánh chất lượng phục vụ giữa bệnh viện
công và bệnh viện tư ở Úc vì theo tôi thấy rất tương đương nhau. Trước đây, tôi
có tham gia một công trình nghiên cứu về sai sót trong y khoa, và kết quả cho
thấy tỉ lệ sai sót trong bệnh viện công có phần thấp hơn (không đáng kể) so với
bệnh viện tư.
8- Giáo sư đã
làm việc ở các cơ sở khám, chữa bệnh tại Việt Nam bao giờ chưa? Xét về thái độ
làm việc, cung cách đối xử với bệnh nhân, ông nghĩ y bác sĩ Việt Nam đạt mấy
điểm (ví dụ là trên thang điểm 10)?
NVT: Tôi không có làm việc ở VN, nhưng hay theo bạn bè và
bà con vào bệnh viện, và âm thầm theo dõi. Vì thế tôi cũng có vài kinh nghiệm
thú vị. Tôi thấy khá nhiều (không phải tất cả, nhưng “khá nhiều”) bác sĩ Việt
Nam có thái độ hống hách, phách lối, và hành xử như là người ban ân huệ. Họ xem
bệnh nhân như là những người dốt nát, không đáng để họ tốn thì giờ giải thích.
Dĩ nhiên, có khi họ quá bận, nhưng tôi đang nói về trường hợp trong bệnh viện
và họ có thì giờ để giải thích cho bệnh nhân. Hình như họ không quan tâm đến
chữ “service” hay chăm sóc bệnh. Nhưng bên cạnh những người như thế, ngành y
vẫn còn những người đàng hoàng và họ làm việc với tinh thần phục vụ, nhưng tôi
e rằng con số đó không nhiều. Do đó, nếu phải chủ quan đánh dấu một điểm về
dịch vụ và thái độ giao tiếp với bệnh nhân một cách toàn cảnh tôi sẽ cho điểm
3/10.
9- Theo ông thì
bao nhiêu năm nữa, Việt Nam mới vươn tới được như nền y tế Úc, chỉ tính riêng
về mặt y đức. Hay là không bao giờ?
NVT: Tôi không thích so sánh về các lĩnh vực mang tính
định tính như đạo đức, vì bất cứ so sánh nào như thế cũng đều khập khiễng. Vả
lại, những chuẩn mực về đạo đức mang tính phổ quát, không phải chỉ có áp dụng
cho Việt Nam mà không áp dụng cho nước khác.
Không ai có thể
tiên lượng hay tính toán bao lâu nữa nền y tế VN sẽ bằng nền y tế Úc hay một
nước tiên tiến nào đó. Y đức là những qui ước về đạo đức hành nghề, chứ không
phải là những chỉ tiêu định lượng có thể cân đo đong đếm nên rất khó so sánh
bằng con số. Y đức là một phần của hệ thống đạo lí (morality) xã hội. Ở Việt
Nam, đã có nhiều tiếng nói về sự suy thoái đạo lí từ những ba mươi năm qua.
Chúng ta biết rằng suy thoái về kinh tế thì có thể hồi phục theo thời gian,
nhưng hệ quả của suy thoái về đạo đức thì rất khó phục hồi do tính “di truyền”
của nó.
10- Giáo sư có
thể cho biết, các nước phát triển (trong đó có Úc - nơi ông đang công tác) có
quy định nào cụ thể về y đức không? Nếu có thì nó được xây dựng trên cơ sở nào?
NVT: Có chứ. Bất cứ nước nào cũng có qui định về y đức. Các
chuẩn mực về y đức được xây dựng trên cơ sở số 1 là không làm hại người bệnh,
và dựa trên 4 nguyên tắc chính. Bốn nguyên tắc đó là: (i) tôn trọng quyền tự
chủ của cá nhân; (ii) đem lợi ích đến cho người bệnh, giúp người bệnh kiểm soát
sức khỏe của họ; (iii) công lí, tức bệnh nhân phải được bình đẳng trong chăm
sóc, không được phân biệt đối xử; và (iv) tôn trọng quyết định cá nhân. Sau
này, các nguyên tắc về y đức còn được mở rộng cho các hoạt động nghiên cứu y
khoa trên người và trên động vật khác (ví dụ như trên chuột). Can thiệp trên
chuột cũng phải xin phép ủy ban y đức, phải tuân thủ theo các chuẩn mực đạo
đức. Tôi có tìm hiểu những chương trình giảng dạy về y đức ở trong nước, và
thấy phần lớn nội dung cũng phù hợp với các chương trình ở nước ngoài, nhưng
đây đó vẫn có vài điểm chưa hẳn thuộc về y đức mà có vẻ tuyên truyền chính
trị.
11- Xin ông
chia sẻ một vài câu chuyện gây bức xúc trong dư luận Úc về vấn đề y đức. Những trường
hợp đó bị xử lí như thế nào?
NVT: Rất ít trường hợp vi phạm y đức được đưa lên mặt
báo, nhưng khi có thì hình phạt rất nặng. Mấy năm trước, một bác sĩ gốc Việt bị
tố cáo sàm sở với nữ bệnh nhân, khi ra tòa, anh ấy bị rút bằng hành nghề. Một
bác sĩ cấp cao người Úc vì ham tiền nên ghi danh nhiều bệnh nhân vào một công
trình nghiên cứu và vi phạm y đức, nên ông bị ra toà, và hình phạt bao gồm trả
lại tiền và bị rút bằng hành nghề suốt đời. Có một trường hợp bác sĩ gây tử
vong cho hàng loạt bệnh nhân thì hình phạt có thể là tù giam.
12- Sự khác
biệt giữa ngành y tế các nước là tất yếu nhưng rõ ràng sự khác biệt không chỉ
nằm ở điều kiện trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật. Yếu tố con người ảnh
hưởng như thế nào đến sự khác biệt này, thưa ông?
NVT: Như nói trên, tôi nhìn yếu tố con người như là trái
tim của một hệ thống. Đặc biệt ngành y, yếu tố con người rất quan trọng, vì đó
là một ngành nghề mang tính nhân văn chứ không thuần túy khoa học. Bệnh viện có
thể có trang thiết bị tốt nhưng không có chuyên viên biết sử dụng thì cũng chỉ
là một đống sắt vụn. Có thể nói rằng nhiều bệnh viện lớn ở VN có trang thiết bị
không kém gì so với bệnh viện nước ngoài, nhưng tại sao bệnh viện VN vẫn chưa
tạo được cái uy tín và uy danh quốc tế. Tôi nghĩ câu trả lời nằm ở phẩm chất và
chuyên môn của nhân sự ngành y và môi trường chung quanh. Cho dù ngành y có
những bác sĩ rất tài giỏi nhưng môi trường chung quanh (như nhiễm trùng bệnh
viện chưa kiểm soát được) và dơ bẩn thì ấn tượng để lại trong “khách hàng”
không mấy đẹp.
13- Một vị lãnh
đạo ĐH Y có nói rằng: "Một sinh viên học đầy đủ y đức trong trường Y là có
thể chắc chắn trở thành bác sỹ có y đức", ông có đánh giá như thế nào về
vai trò của việc dạy y đức trong nhà trường? Có phải cứ dạy đủ y đức là sẽ có
bác sĩ có y đức, bất luận môi trường xã hội ra sao?
NVT: Tôi rất có
cảm tình với nhận xét của vị lãnh đạo, nhưng tôi thấy khó chia sẻ nhận xét đó.
Chúng ta nên nhớ rằng có tình trạng “trả chữ cho thầy”. Y đức là một nộ phận
của hệ thống đạo lí xã hội. Người bác sĩ tương tác với xã hội và chịu sự chi
phối của môi trường đạo lí xã hội. Do đó, cho dù người bác sĩ đã học về y đức
trong nhà trường, nhưng khi tiếp xúc với môi trường ngoài xã hội có thể bị
lệch. Vấn đề còn là giảng dạy y đức theo chương trình nào nữa. Vấn đề cần đặt
ra vì những điều lệ về y đức của VN hiện nay rất khác với điều lệ y đức trên
thế giới.
14- Thưa Giáo
sư, ông có thể khái quát về quá trình đào tạo bác sĩ ở Úc hiện nay? Nó khác như
thế nào so với Việt Nam? Đã từng thỉnh giảng ở một số đại học Việt Nam, ông
đánh giá như thế nào về khả năng của sinh viên và khả năng đào tạo y khoa ở
Việt Nam? Theo ông điều gì sinh viên ngành y Việt Nam đang thiếu so với sinh
viên ngành y ở Úc?
NVT: Ở Úc có 2 mô hình đào tạo bác sĩ. Mô hình thứ nhất
có thể tạm gọi là “mô hình cử nhân”; theo đó, các học sinh tốt nghiệp trung học
phổ thông xuất sắc được tuyển chọn qua kì thi và phỏng vấn cá nhân. Sinh viên
được tuyển thường theo học 5-6 năm (tuỳ trường) và tốt nghiệp với bằng cử nhân
y khoa và cử nhân giải phẫu (MBBS). Mô hình thứ hai là mô hình sau đại học, các
thí sinh đã tốt nghiệp cử nhân với hạng xuất sắc muốn theo học y khoa sẽ được
tuyển chọn qua một kì thi và phỏng vấn cá nhân. Với mô hình thứ hai, sinh viên
theo học y khoa 4 năm, và cũng tốt nghiệp với văn bằng MD (doctor of
medicine).
Chương trình huấn
luyện cấp cử nhân (MBBS hay MD) thường được cơ cấu thành 3 giai đoạn. Giai đoạn
1 là chương trình học cơ bản (7-8 course), như quá trình phát triển của một cá
nhân, lão hoá, môi trường, xã hội, và y đức. Giai đoạn 2 là học tiền lâm sàng.
Giai đoạn 3 là tập trung học về lâm sàng, nhưng vẫn học khá nhiều môn về khoa
học cơ bản và khoa học xã hội. Nhìn qua chương trình đào tạo ngành y ở VN (tôi
chỉ nói các trường lớn và tương đối lâu đời) tôi thấy không khác so với các
trường bên Úc. Nhưng trong thực tế thì có sự khác biệt lớn về nội dung và cơ sở
vật chất giữa Úc và Việt Nam. Ở Úc và nhiều nơi trên thế giới (ngay cả Thái
Lan), sinh viên y khoa học khá nhiều về khoa học cơ bản và sinh học với thực
hành trong labo, nhưng ở VN thì vẫn còn thiếu thầy cô có kinh nghiệm và labo
cho sinh viên. Vì thế không ngạc nhiên khi rất nhiều bác sĩ VN chưa cập nhật
nổi những kiến thức cơ bản về sinh học, di truyền học, và sinh hoá vốn rất quan
trọng cho ngành y.
Rất khó đánh giá
chất lượng đầu ra của các trường y bên VN vì tôi không có dữ liệu. Nhưng có thể
so sánh với một số nước chung quanh về tỉ lệ thi tuyển y khoa. Ở Úc, các bác sĩ
tốt nghiệp ở ngoài nước Úc có thể hành nghề y nếu họ qua một kì kiểm định về
kiến thức và kĩ năng lâm sàng do Hội đồng Y khoa Úc điều hành. Kết quả kiểm
định của các bác sĩ tốt nghiệp từ Việt Nam không được khả quan. Chẳng hạn như
năm 2009, có 19 bác sĩ thi về kiến thức y khoa, và chỉ có 7 người (~37%) được
đỗ. Tỉ lệ này tương đối thấp khi so với bác sĩ Miến Điện (100% đỗ), Ấn Độ
(52%), Nam Phi (68%), và Trung Quốc (43%). Tỉ lệ bác sĩ tốt nghiệp từ Việt Nam
đỗ về lâm sàng cũng chỉ dao động trong khoảng 30-50%, và thấp hơn các bác sĩ từ
các nước như Philippines, Ấn Độ và Miến Điện.
15- Trong một
bài viết của có tựa đề "Y đức và đạo lý", ông cho rằng GPTM không
thuộc ngành y, vậy theo ông, trách nhiệm vụ bác sĩ thẩm mĩ phi tang thi thể nạn
nhân thuộc về đâu? Ông đã bao giờ nghe đến trường hợp bác sĩ làm chết rồi phi
tang xác như trường hợp của bác sĩ Tường trên thế giới chưa ạ?
NVT: Tôi viết rằng xét trên khía cạnh mục tiêu và đối
tượng thì GPTM không thuộc ngành y. Tôi chỉ nói giải phẫu thẩm mĩ (cosmetic
surgery) chứ không đề cập đến giải phẫu chỉnh hình (constructive surgery). Dĩ
nhiên, quan điểm đó của tôi không được nhiều người tán thành, có người thậm chí
còn nói một cách nặng nề rằng tôi cố ngụy biện để tránh luận tội Bs Tường!
Người ta có thể phản đối bằng cách chỉ ra rằng bác sĩ làm phẫu thuật thẩm mĩ là
… bác sĩ. Cố nhiên, tôi cũng có thể chỉ ra rằng một người xuất thân là bác sĩ
cũng có thể kinh doanh. Bác sĩ thực hiện phẫu thuật làm đẹp ứng dụng kĩ năng y
khoa, kiến thức khoa học để đem lại cái đẹp cho khách hàng rất khác với bác sĩ
điều trị bệnh nhân trong cơn thập tử nhất sinh.
Tôi chưa bao giờ
nghe hay biết bác sĩ thẩm mĩ nào phi tang thi thể nạn nhân như vị bác sĩ ở Hà
Nội. Có lẽ đó là một trường hợp đầu tiên trên thế giới. Nhưng tôi nghĩ không
nên nhân một trường hợp cá biệt mà suy luận về tình trạng y đức cho toàn ngành
y.