Con cừu đen của làng toán Việt
Không hiểu sao, trong một tuần vừa rồi mà tôi nhận được thư yêu cầu
phỏng vấn và xin thông tin cá nhân từ những 3 người liền, liên quan đến
chuyện tôi là một GS toán trước đã từng thi toán quốc tế. Thế nhưng tôi
không hề giống với hình dung của mọi người về các nhà toán học nói
chung, nên nếu chẳng may “chân dung” của tôi có xuất hiện trên báo chí
gì đó, thì có khả năng là không khớp với thực tế lắm. Tôi chẳng có thành
tích gì nổi bật, ngoài “thành tích” là làm “con cừu đen”. Dưới đây là
bài viết gửi cho một trong ba người hỏi tôi.
Làm toán vì nghiệp chướng
Tôi không có thành tích gì đặc biệt về khoa học để mà kể. Nhưng vì có
một số người tò mò muốn được biết một nhà toán học hồi năm 1985 được
huy chương vàng olympic bây giờ ra sao, nên xin viết lại một chút về bản
thân ở đây làm kỷ niệm.
Có nhiều nhà toán học trên thế giới sinh ra là để làm toán, sống là
để làm toán, toán học là cuộc sống của họ, họ không bao giờ mảy may có ý
nghĩ bỏ toán. Họ thật sự là những người rất hạnh phúc trong công việc
của mình. Một số người bạn cùng thế hệ với tôi như Vũ Hà Văn hay Ngô
Bảo Châu, hay như anh Phạm Hữu Tiệp trên tôi một số năm, có thể được
xếp vào hạng như vậy. Còn tôi, tôi làm toán là vì “nghiệp chướng”. Đã có
nhiều lần tôi tìm cách đổi nghề mà không thành, “ông trời” vẫn “bắt”
tôi làm toán, và vẫn nuôi tôi bằng nghề này.
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo. Thời đó, ở Việt Nam tất nhiên
hầu như ai cũng nghèo cả. Nhưng gia đình tôi thuộc loại nghèo của những
người nghèo. Khi tôi còn bé, cả nhà 4 người bố mẹ, chị ruột, và tôi sống
trong một căn phòng 9 mét vuông ở một ngõ nhỏ ở phố Huế (Hà Nội), mọi
thứ bếp núc và công trình phụ là dùng chung tập thể. Bữa ăn no bụng là
mừng rồi, thỉnh thoảng mới có ít “chất đạm”. Khi tôi quãng 6 tuổi, một
lần được ăn thịt bò, thấy ngon quá mới hỏi mẹ: “đây là gì hả mẹ”. Mẹ tôi
bảo đấy là thịt bò. Tôi liền nói: “về sau con sẽ vừa làm kỹ sư vừa đi
bán thịt bò”. Lúc đó tôi chưa biết rằng, cái số “vừa làm kỹ sư vừa đi
bán thịt bò” đấy sẽ ứng vào tôi mãi về sau.
Bố mẹ tôi là giáo viên cấp hai. Mà giáo viên cấp hai thời đó thì rất
nghèo, lương không đủ ăn và nuôi hai con. Mẹ tôi phải cố gắng kiếm thu
nhập bằng mọi cách, từ những việc thủ công, đến những việc như đi bán
bánh mì “chui”, rồi đến những việc buôn bán nguy hiểm hơn nữa, mà sẽ ảnh
hưởng xấu về sau. Thầy cô giáo ngày xưa như bố mẹ tôi được học sinh rất
quí, nhưng không nhận tiền như kiểu ngày nay. Thỉnh thoảng, có phụ
huynh làm nghề bán hàng tặng cho một ít lạp xưởng, hay một cái bánh mì
kẹp ba tê, thế là có “bữa tươi” vậy thôi. Tuy làm giáo viên rất nghèo,
nhưng “trong cái rủi có cái may”, là quen biết các thầy cô giáo khác, và
quan tâm được đến việc học phổ thông của con cái hơn so với nhiều người
khác. Cũng bởi vậy, khi lớp chuyên toán cấp 1 đầu tiên được mở ra ở
quận Hai Bà Trưng, tôi được gia đình cho thi vào đó, và thế là từ đó
luôn học chuyên toán cho đến khi hết phổ thông.
Khi học ở chuyên toán, càng ngày tôi càng đạt thành tích tốt, được cử
đi thi học sinh giỏi, và đến năm cuối cấp hai cũng đạt giải nhất toán
toàn quốc, có được vào Hội trường Ba đình gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng
lúc đó nhân dịp quốc tế thiếu nhi 01/06. Thành tích đó không phải do tôi
thông minh gì đặc biệt, mà chủ yếu là do sự say mê tìm tòi toán học và
điều kiện được học lớp chuyên với các thầy tốt đều là bạn bè của bố mẹ,
và do ở nhà có nhiều sách toán thôi. Bố tôi tuy chỉ là giáo viên cấp 2,
nhưng yêu khoa học nên có mua nhiều sách toán và vật lý để ở nhà, kể cả
sách cao cấp, tôi cứ thế lôi ra đọc, hiểu được chỗ nào thì hiểu. Ngoài
toán ra, thì hầu như tôi chẳng biết gì khác, và đặc biệt là rất kém về
môn văn. Tôi chỉ gỡ được điểm về các bài kiểm tra ngữ pháp thôi, chứ các
bài làm văn được điểm trung bình là may. Cho đến bây giờ nghĩ lại, tôi
vẫn thấy mình hầu như chẳng hề học được gì về cách làm văn hay hưởng thụ
văn học từ các giờ học văn. Tuy các thầy cô dạy văn là những người tốt,
thậm chí là những giáo viên giỏi, nhưng cách tiếp thu của tôi có lẽ
không được thích hợp với cách dạy văn ở phổ thông.
Vì say sưa học toán và có được nhiều thày giỏi, bạn hay, nên khi học
lớp 11 ở Chuyên toán ĐHTH (nay là ĐH KHTN) tôi đã được chọn vào đội
tuyển đi thi olympic quốc tế. Trong các bạn bè của tôi thời đó thì đặc
biệt có Huỳnh Minh Vũ. Tôi và Vũ gặp nhau thường xuyên, làm toán cùng
nhau, chơi bời cùng nhau, đi học thêm cùng nhau, v.v. Vũ cũng được vào
đội tuyển đi thi Olympic cùng với tôi, và về sau cả hai sẽ cùng đi sang
Liên Xô. Nhưng cũng vì chỉ biết có học toán, nên kiến thức của tôi bị
hổng rất nhiều, đặc biệt là các kiến thức về xã hội, cách sống và cách
xử lý các vấn đề trong cuộc sống, cách suy nghĩ chọn lựa lối đi, v.v.,
và điều này sẽ là một điểm bất lợi lớn về sau.
Sau khi thi IMO năm 1985, tôi và các bạn cùng đội tuyển được đặc cách
tốt nghiệp phổ thông và cho đi du học, trừ hai bạn: một bạn do không đủ
sức khỏe (cách đây mấy năm bạn này đã mất vì bệnh tật), và một bạn khác
người miền Nam do “lý lịch xấu”. Vì không có hiểu biết hay thông tin gì
để mà có lựa chọn nào khác, nên lựa chọn hiển nhiên duy nhất đối với
tôi lúc đó là đi học toán ở MGU. Bạn Lâm Tùng Giang cùng đội tuyển cũng
sang MGU học toán cùng tôi, Vũ thì đi học tin học và được cử đi Tbilisi,
còn một bạn khác cùng đội tuyển là Huỳnh Văn Thành thì cũng sang Moskva
học, nhưng về ngành khác.
Tôi khi sang Nga học là một cậu bé vô cùng ngây thơ (nghĩ lại thấy
ngây thơ là phải, chưa đủ 16 tuổi và chưa có hiểu biết gì về chính trị),
thấy nước Nga đẹp như thiên đường. Nhưng rồi, chỉ trong vòng có vài
năm, cái thiên đường đó sụp đổ ngay trước mắt. Người Nga nói chung là
người tốt, ở trường thì các giáo sư và bạn bè nói chung đều tốt. Nhưng
ngoài lĩnh vực học thuật ra, thì mọi thứ trở nên tồi tệ nhanh chóng.
Quan hệ giữa người Nga và người Việt cũng xấu đi. Cuối những năm 1980,
mỗi lần tôi ra sân bay ở Moskva tiễn người về nước mà thấy hãi hùng cảnh
cảnh sát Nga cầm dùi cui khua người Việt Nam như khua vịt. Đại sứ quán
VN ở Nga và ban quản lý lưu học sinh, thay vì giúp đỡ lưu học sinh, thì
công việc chính của họ thời đó là bắt nạt và ăn chặn lưu học sinh. Muốn
làm được gì cũng phải hối lộ cho họ. Về mặt chính thức, các lưu học sinh
bị cấm không được đi buôn lậu. Nhưng thực ra phần lớn người Việt ở Nga
là có đi buôn kiểu này hay kiểu khác, và buôn lậu mạnh nhất chính là các
nhân vật ở Sứ Quán.
Trong tình hình lộn xộn ở Nga, nói chung ít người yên tâm đi theo con
đường học thuật. Thế hệ chúng tôi như là một thế hệ “bỏ đi”. Ai thức
thời biết đường buôn bán làm ăn thì về sau đại gia này nọ, tuy cũng có
những người vì làm ăn mà hy sinh luôn mạng sống ở Nga. Tôi tuy có cố
gắng học, nhưng cũng bị sao nhãng nhiều. Nếu không buôn bán gì thì đói
ăn, vì học bổng những năm cuối không còn đủ tiền để mua đồ ăn nữa, có
những lúc thậm chí không còn gì để ăn. Bởi vậy tôi cũng đi làm thêm ở
nhà máy, rồi cũng đi buôn. Nhưng tôi có số luôn bị mất của, buôn thì có
lãi nhưng lại bị lấy trộm gần hết tiền trong một chuyến đi. Có một người
bạn Nga nghe thấy bị mất trộm hết tiền thì thốt lên: “tao bị mất từng
đấy tiền thì có thể tự tử được!”.
Kể ra thì xấu hổ, nhưng thời đó tôi học chảnh mảng đến mức mà có kỳ
thi 5 môn tôi phải thi 9 lần vì chẳng học gì cả, trước khi thi vài hôm
mới học, thế là thi trượt lại về nhà học lại mấy hôm sau đi thi lại, và
có 4 môn liền như vậy. (Kiểu thi cuối học kỳ ở MGU lúc đó là thi nói, và
nếu lần đầu thi không đạt thì không tính điểm, được phép thi lại ngay
mấy hôm sau). Thậm chí có những môn tôi mang luôn cả sách giáo khoa dày
cộp vào phòng thi để “quay”. Các sinh viên Nga cũng làm vậy, nên lúc đó
cũng không lấy làm xấu hổ. Cũng may, tuy phải thi lại nhiều, nhưng cuối
cùng nói chung các điểm thi đều tốt, và tôi vẫn tốt nghiệp “bằng đỏ”.
Năm 1991, khi tôi tốt nghiệp đại học, cũng là năm đầu tiên không còn
thỏa thuận giữa VN và Liên Xô về chuyển tiếp làm NCS cho những người mới
tốt nghiệp đại học loại giỏi. (Những anh chị học trên tôi 1 năm thì vẫn
làm tiếp NCS). Từ hồi tôi làm sinh viên năm thứ 3, ông thầy hướng dẫn
là ông Anatoly Fomenko (ông Fomenko cũng là thầy hướng dẫn của GS Đào
Trọng Thi và GS Lê Hồng Vân trước đó) đã giao cho các vấn đề nghiên cứu
nhỏ nhỏ, và đến khi học hết năm thứ 5 thì cũng đã viết được 3-4 bài báo
khoa học đăng ở các tạp chí khá tốt của Nga (như là Uspekhi, Math.
Sbornik và Func. Anal. Appl.), nên đầu tiên tôi hy vọng là có thể xin
làm thực tập ngắn hạn hơn thay vì làm NCS. Tôi có hỏi ông thầy là có
cách nào cho tôi ở lại quãng 1,5 năm (thay vì 3 năm NCS) để tôi cố gắng
làm và bảo vệ nhanh cho xong không, nhưng ông thầy thấy không khả thi.
Thế là đối với tôi, “sự nghiệp khoa học” coi như chấm dứt. Có thực mới
vực được đạo, đói thì làm sao làm khoa học được. Tôi quyết định là tìm
đường sang Ba Lan buôn bán sinh sống nhờ vào bạn bè nào đó. Ở lại Nga
thì tôi không muốn vì tình hình an ninh loạn lạc và tôi thuộc loại “ngố”
khó sống được ở môi trường đó. Về Việt Nam thì cũng chẳng biết làm gì
để sống. Một số bạn bè có kế hoạch mạnh mẽ hơn, đó là vượt biên đi đường
rừng sang phương Tây tị nạn.
Nhưng ông trời lại chưa cho tôi chuyển nghề đi buôn ngay. Một lần,
theo tôi nhớ, anh Nguyễn Hồng Chương (nhà vật lý, nay làm kinh doanh ở
Hà Nội) có đi hội nghị ở ICTP (Trieste) về qua Moskva và cho mấy anh em
khoa toán mấy thông tin về các hội nghị toán học ở đó. Thời đó, internet
chưa có, ngay điện thoại cũng rất hiếm, thông tin không dễ kiếm như
ngày nay, thậm chí một số “cây đa cây đề” của khoa học VN còn cố tình
bưng bít thông tin thành “của riêng”, nên có được thông tin như vậy là
“quí như vàng”. Tôi liền nộp đơn đại xin sang dự hội nghị bên đó vào hè
năm 1991. Không ngờ được họ nhận và đài thọ toàn bộ chi phí ăn ở đi lại.
Có anh Lê Tự Quốc Thắng cũng xin đi và cũng được nhận. Thế là hai anh
em lặn lội làm các thủ tục và mua vé để đi. Chuyến đi đó là cả một câu
chuyện ly kì. Phải dút lót cho ông quản lý LHS ở ĐSQ VN ở Nga mới được
cho đi (ông ấy giở luật ra là muốn đi phải có báo cáo hội nghị và cứ thế
om hồ sơ, mà sinh viên thì được mời đến để học chứ có phải để báo cáo
cho thiên hạ nghe đâu). Vé máy bay thì quá đắt so với bọn tôi thời đó,
nên phải xếp hàng rồng rắn lên mây mất mấy ngày để đến lượt mua vé tàu
hỏa. Nhưng đi tàu hỏa thì phải xin visa transit qua một số nước, trong
đó có Hungary. Đến DSQ Hungary xin, thì tụi nó đuổi về không cho mà còn
chửi đại loại “tụi VN chúng mày ở Hungary là tụi khốn nạn”. Không có
visa quá cảnh, nhưng chúng tôi cứ thế liều đi. Đến biên giới Hung, cảnh
sát biên phòng xem hộ chiếu của chúng tôi thì chẳng nói gì cả, nhưng đến
lượt mấy người Nga cùng tàu thì bị đuổi xuống, hóa ra ở biên giới đó họ
ghét người Nga! Còn nhiều chuyện ly kì khác, nhưng có lẽ hơi lạc đề
rồi. Sang đến Trieste, chị Lê Hồng Vân, lúc đó đang làm việc ở ICTP được
1 năm, giới thiệu tôi với ông James Eells và ông Alberto Verjovsky lúc
đó là viện trưởng và viện phó phân viện toán ở đó. Khi xem hồ sơ của
tôi, họ thấy thích thú, bèn quyết định nhận tôi vào làm việc ở ICTP 2
năm, và thế là kể hoạch đổi nghề thành kinh doanh phải hoãn lại.
ICTP là một trung tâm khoa học tốt. Tuy nhiên, ở đó tôi không có thầy
hướng dẫn, và thích làm gì thì làm, thích học gì thì học, tự mày mò là
chính, cũng chẳng ai chỉ dẫn cho mình là nên lựa chọn đi theo những gì
là tốt nhất. Trong giai đoạn đó, tôi có thử tìm cách xin sang Mỹ làm
NCS. Nhưng không được nhận, bởi 1 lý do rất ngớ ngẩn là tại vì tôi …
không đóng tiền lệ phí xét hồ sơ. Cuối cùng thì sau hai năm ở ICTP, tôi
thành NCS ở SISSA, là một viện của Ý nằm ngay sát nách ICTP. ở SISSA,
tôi cũng không có thầy hướng dẫn, mà vẫn chủ yếu tự mình mày mò làm mấy
bài toán có từ thời sinh viên. Được sự giúp đỡ của GS Michèle Audin ở
Strasbourg, đến năm 1994 tôi viết xong luận án và mang sang đó bảo vệ.
Tôi có đăng ký làm sinh viên của Strasbourg, nhưng thực ra chỉ ở đó có 3
hôm thôi. Sau khi bảo vệ xong, SISSA nhận tôi ở lại tiếp làm postdoc,
và sau đó tôi được Viện Max-Planck nhận làm postdoc, rồi được CNRS của
Pháp tuyển làm chargé de recherche. Từ cuối năm 1995, tôi thành người
của CNRS.
Được thành nghiên cứu viên của CNRS nghe có vẻ oai. Nhưng mà lương
thấp so với nhiều nơi khác. Lúc đó tôi đã có vợ và con trai. Về mặt tài
chính chẳng dư thừa gì cả. Hơn nữa, lúc đó gia đình bố mẹ tôi ở VN liên
tục lâm vào các khó khăn. Bố tôi bị tại nạn rất nặng (tàu hỏa đâm vào,
may không chết, nhưng chẳng được bồi thường gì), và mẹ tôi buôn bán
những thứ gì đó liên tục thua lỗ, đến phá sản và nợ đầm đìa, nên gánh
nặng tài chính đổ lên đầu tôi. Bây giờ “khôn” hơn một chút, tôi hiểu là
chỉ có cách để mẹ “tuyên bố phá sản” chứ sức mình lúc đó không cách nào
trả nợ cho mẹ được. Nhưng lúc đó tôi ngây thơ và tự tin hơn, quyết tâm
trả nợ cho mẹ, nên dồn hết tiền và đi vay nợ thêm để gửi về VN.
Tôi không thấy có cách nào làm toán mà “mở mặt” lên được về kinh tế,
nên khi làm cho CNRS ở thành phố Montpellier, tôi quyết tâm chuyển nghề.
Đầu tiên là định theo hướng tin học. Thế là tôi đăng ký học thạc sĩ về
máy tính ở Montpellier. Tôi có mày mò tự học cách viết chương trình chạy
trên mạng (server side application), có lần làm sập luôn cả hệ thống
máy tính của khoa vì chương trình của tôi liên tục sinh ra các “zombi”.
Những câu chuyện về Silicon Valley mà tôi nghe hơi nồi chõ được rất hấp
dẫn, và tôi cũng hy vọng là mình sẽ thành công khi nhảy sang làm máy
tính. Nhưng tiếc rằng, điều kiện ở Montpellier không giống như ở bên Mỹ.
Đi học thạc sĩ máy tính, nhưng học phải những thứ lý thuyết mà tôi thấy
chán chứ không thấy hay, và không được làm quen nhiều máy móc hiện đại.
Nên cuối cùng tôi bỏ cuộc, không lấy bằng thạc sĩ máy tính nữa.
Nghĩ hướng đi khác. Nghe nói có những nhà toán học thành triệu phú,
tỷ phú về chứng khoán, nên tôi cũng nghĩ “họ làm được thì mình cũng làm
được”, và thế là quyết tâm nhảy vào thị trường chứng khoán, coi nó như
là một cứu cánh. Trong một số năm, tôi bỏ khá nhiều thời giờ nghiên cứu
chứng khoán, nghĩ chiến lược này nọ. Nhưng mấy lần “ra quân” không may
phải đúng mấy lúc thị trường sập, thế là lại thiệt hại lớn, và sau đó
lại hì hụi gỡ lại. Tôi thuộc loại người “ngây thơ, tin người” nên cũng
không hợp mấy với thị trường chứng khoán, là nơi họ suốt ngày lừa nhau,
ngay cả ở thị trường Mỹ. Có một thời gian, tôi chỉ chuyên chơi option,
lúc thắng thì thắng rất nhanh (có lúc tài khoản tăng được mấy chục lần,
nhưng vì với con số ban đầu rất thấp nên tính giá trị tuyệt đối thì cũng
không nhiều), rồi lại bị thua do quản lý rủi ro kém. Tính tổng cộng lại
thì thắng thua không nhiều, chỉ có tiền nộp commission cho các công ty
chứng khoán là nhiều, có khi còn hơn tổng số vốn bỏ ra. Trong lúc làm
CNRS ở Montpellier, tôi thấy có nhà băng của Pháp quảng cáo tuyển việc
những người làm toán, và cũng đi xin việc, nhưng họ chê không nhận. Và
thế là vẫn cứ phải làm toán. Có lần, thấy công ty đầu tư ở Mỹ tuyển
việc, tôi cũng liên hệ với họ nhưng cũng không ăn thua. Trong CV của tôi
không có những thứ về toán tài chính, xác suất thống kê, v.v. nên có lẽ
không hấp dẫn với họ.
Vì là nghiên cứu viên CNRS, nên trong thời gian đó, tuy đầu óc lúc
nào cũng bị ám ảnh câu hỏi “làm sao để kiếm tiền bây giờ”, nhưng tôi
cũng vẫn phải làm nghiên cứu về toán, không sợ người ta kêu. Mấy ông bạn
cùng trường giục: “bao giờ mày bảo vệ Habilitation đi chứ”. Tôi hứa là
lúc nào làm ra cái gì hay thì sẽ bảo vệ. Quãng năm 2000, tôi nhận dạy
một lớp cao học về hệ Hamilton. Trong loạt bài giảng phải có phần nói về
dạng chuẩn địa phương, là một phần mà bản thân tôi lúc đó nắm rất là ú
ớ. Trong lúc tìm các tài liệu đọc về vấn đề dạng chuẩn này, tôi thấy
cách sách viết nói chung đều khó hiểu, nhưng tôi nghĩ ra được một cách
hiểu theo kiểu của mình dễ hơn. Thật bất ngờ, cách đó cũng cho phép
chứng minh một định lý khá thú vị, đó là mọi hệ khả tích analytic thì
đều có được chuẩn hóa địa phương hội tụ. Định lý này trước đó người ta
mới chứng minh được trong trường hợp hệ non-resonant, dùng công cụ giải
tích khá phức tạp. Nhưng với cách hiểu mới của mình, dùng các tác động
xuyến, tôi chứng minh được nó cho trường hợp tổng quát, và một cách đơn
giản hơn. Nhờ nó mà đến cuối năm 2001 tôi đã bảo vệ habilitation.
Tôi viết Habilitation của mình bằng tiếng Pháp, với nhan đề “A la
recherche des tores perdus” (đi tìm những xuyến đã mất). Mấy ông bạn của
tôi rất thích nhan đề này, vì nó làm gợi nhớ tác phẩm văn học nổi tiếng
“A la recherche du temps perdu” (đi tìm thời gian đã mất) của Marcel
Proust. Thú thực là tôi cũng chưa đọc quyển truyện nổi tiếng này, thấy
nó dầy cộp đã thấy ngại rồi, chỉ nghe vợ kể vài ý trong chuyện thôi. Hôm
bảo vệ, ông trưởng lab còn mặc luôn cả áo có in chữ “A la recherche du
temps perdu”. Tôi thì nói đùa là “xuyến” ở đây có nghĩa là các đồng xu,
tức là tôi đi tìm tiền đã mất! Nói một cách nghiêm túc hơn, thì luận văn
này là về kỳ dị của các hệ động lực khả tích. Ở những chỗ không kỳ dị,
thì các đa tạp bất biến là các xuyến, nhưng khi đi qua các điểm kỳ dị,
thì các xuyến này bị biến hóa đi. Một phần của luận văn, về khía cạnh tô
pô và hình học, là những thứ tôi đã viết và đăng trước đó, và một phần
chính là kết quả “trời cho” nghĩ ra trong lúc dạy cao học. Tôi có mời
được những người thầy cũ là Anatoly Fomenko và Michèle Audin đến dự vào
hội đồng bảo vệ. Ngoài ra tôi cũng mời được thêm mấy nhà toán học có
tiếng khác như Yves Colin de Verdière và Hans Duistermaat vào hội đồng. Ở
Pháp, khi bảo vệ TS thì thầy hướng dẫn phải tìm hội đồng cho NCS, còn
khi bảo vệ ở mức Habilitation, thì ứng cử viên phải tự lo chuyện lập
được cho mình một hội đồng danh giá.
Văn bằng Habilitation cho phép tôi ứng cử vào chân giáo sư ở các nơi ở
Pháp. Công việc làm giáo sư vất vả hơn làm làm nghiên cứu viên CNRS, vì
phải dạy học, trong khi người của CNRS không phải dạy học, tự do hơn
nhiều. Nhưng làm giáo sư là một giải pháp về tài chính, vì lương cao
hơn, và thế là đến năm 2002 tôi nộp đơn xin làm GS ở 5 nơi khác nhau ở
Pháp. Trong đó có 3 nơi nhận phỏng vấn (qua được vòng 1) là Paris 7,
Lille và Toulouse. Ở Paris 7, tôi chỉ được xếp thứ 3 trong danh sách 5
người lọt vào vòng cuối cùng. Người bạn ủng hộ tôi ở Paris 7 động viên
“cậu đứng thứ 3 không phải vị cậu kém 2 tên kia, mà là vì ngành của 2
tên kia được ưu tiên hơn thôi”. Tôi rất cảm ơn ông bạn, nhưng cũng nói
là thực ra tôi cũng hơi sợ “phải” đi Paris vì Paris đắt đỏ quá mà tôi
thì nghèo (một vợ hai con, vô sản, gánh nợ lớn của mẹ vẫn còn rất
nhiều). Cả Lille và Toulouse đều nói họ muốn nhận tôi, và tôi chọn
Toulouse, thế là chuyển về Toulouse ở từ năm 2002, mọc rễ ở đó cho đến
nay. Giá cả sinh hoạt ở Toulouse rẻ hơn Paris nhiều, mà lương thì ở đâu
cũng thế. Tất nhiên, về mặt khoa học, thì ở Paris có nhiều điều kiện
nhất. Nhưng đối với tôi, vấn đề ổn định kinh tế còn chưa giải quyết
được, chuyện điều kiện khoa học xếp sau.
Các nhà khoa học lớn, thường cũng có thầy là nhà khoa học rất lớn.
Đây là điểm quan trọng, vì thầy không những chỉ định hướng cho mình, mà
còn nâng đỡ cho mình nhiều kiểu khác, quảng cáo cho mình, ủng hộ mình
trong các dự án, v.v. Những thứ đó, một người phải tự bươn trải thì khó
hơn nhiều. Có lần quãng năm 2003-04, tôi đến Grenoble đọc một series mấy
báo cáo, chủ yếu về các kết quả tôi làm từ quãng năm 1994-95 cộng thêm
mấy kết quả mới. Ông Bernard Malgrange (một nhà toán học lớn của Pháp)
hỏi tôi đăng ở đâu chưa, tôi trả lời đăng gần chục năm nay rồi, ông ấy
ngạc nhiên lắm. Kết quả có tốt, có đăng lâu rồi nhưng không được quảng
cáo thì cũng ít ai biết đến.
Tôi cũng nhận ra là “không thầy đố mày làm nên”, nhưng chót “lỡ thì”
sau một thời gian không có thầy bà, nên về sau không có được thầy nữa,
mà xung quanh chỉ có các đồng nghiệp không vượt trội hẳn lên để làm thầy
của mình. Đấy là điều tôi dùng để “tự an ủi” vì sao mình khó làm được
cái gì to tát, tuy tất nhiên lỗi chính thuộc về tôi. Bây giờ, sau khi đã
“gỡ được phần lớn các gánh nặng”, không còn bận tâm mấy chuyện kinh tế,
tôi có thể sẽ cố tập trung hơn để làm gì đó, tuy rằng có được gì hay
không thì vẫn là “người tính không bằng trời tính”, và khi không bận tâm
về kinh tế của bản thân thì lại có nhiều vấn đề xã hội khiến tôi bận
tâm. Nhưng các bạn trẻ nào có hoài bão tham vọng lớn trong khoa học rất
nên chú ý chuyện chọn thầy, hãy cố tìm cho mình người thầy tốt nhất có
thể.
Thời ở Montpellier, tôi ngồi cùng phòng làm việc với một ông bạn, là
ông Jean-Paul Dufour. Ông Dufour rủ tôi làm chung về kỳ dị của các đa
tạp Poisson, và trong nhiều năm, kể cả khi tôi đã rời khỏi ở Monpellier,
có hợp tác với ông Dufour trong lĩnh vực này, và có viết chung một
quyển sách về đề tài này đăng ở Birkhauser trong series “Progress in
Mathematics”. Trong những năm 2000, tôi trở thành một chuyên gia trong
một chuyên ngành toán học nhỏ gọi là “hình học Poisson”, và có tham gia
hội đồng khoa học và hội đồng tư vấn cho các hội nghị quốc tế về lĩnh
vực này. Qua đó tôi có làm quen và trao đổi với nhiều nhà toán học khác
trên thế giới, ví dụ như Alan Weinstein (ông này là trưởng khoa toán ở
Đại học Berkeley một số năm trước), Victor Guillemin (ở MIT), Tudor
Ratiu (ở EPFL), v.v.
Hồi năm 2003, tôi có chứng minh được một giả thuyết của Weinstein về
chuyện các “proper Lie groupoid” đều có thể tuyến tính hóa địa phương.
Ông Weinstein và một số bạn bè rất thích kết quả này. Ông ấy bảo “cậu có
thể gửi đặng tạp chí loại tốt nhất, ví dụ như Annals cũng được”. Sau
một hồi suy nghĩ, tôi quyết định gửi đăng Journal AMS. Bài báo nhận được
rất nhiều phản biện “positive”, nhưng cuối cùng vẫn bị ban biên tập gạt
đi không cho đăng, với một lý do kỳ quái là do có 1 phản biện ghi là
“về ứng dụng thì không rõ sẽ có ứng dụng gì”. Tôi cũng không rõ phản
biện đó đòi hỏi phải có ứng dụng kiểu gì, vì vấn đề của bài báo là một
trong các câu hỏi rất tự nhiên của lý thuyết, và liên quan ngay đến một
số thứ khác như là lý thuyết biểu diễn của các proper groupoids, và các
“proper stacks”. Có thể ông ta đòi ứng dụng như là toán ứng dụng trong
công nghiệp chẳng hạn. Dù lý do gì chăng nữa, thì bài báo không được
đăng, khiến không chỉ tôi mà khá nhiều người ngạc nhiên. Tôi đành gửi
bài báo đó về tạp chỉ Ann. ENS của Pháp và được nhận đăng ngay ở đó.
Chuyện bài báo bị từ chối là chuyện khá thường tình trong toán học.
Nhiều khi do thiên kiến, cảm tính, hay chính sách này nọ, v.v.. Kể cả
các bài rất tốt vẫn có thể bị từ chối, trong khi bài không tốt bằng có
thể được nhận đăng, và cũng có khi bài bị từ chối chẳng qua là do viết
ẩu, và tất nhiên có khi cũng là do bài chán thật. Bởi vậy các bạn trẻ
đừng nản chí nếu bài báo bị từ chối. Bản thân tôi cho đến bây giờ vẫn có
các bài bị từ chối. Thậm chí có ông biên tập tạp chí trong 2 ngày gửi
tôi liền hai thư, thư đầu là để từ chối 1 bài tôi gửi, thư thứ hai là để
yêu cầu tôi làm phản biện cho bài khác gửi cùng tạp chí! Lại nói chuyện
bị từ chối, kết quả “trời cho” mà tôi nghĩ ra khi dạy cao học năm 2000,
tôi viết thành một bài báo gửi đăng tạp chí Math Annalen, và cũng bị từ
chối. Tôi bực lắm, nghĩ kết quả của mình thú vị thế này, tốt hơn mấy
kết quả trước đó được đăng ở những nơi rất tử tế, và chứa cả một cách
nhìn mới về dạng chuẩn địa phương, mà sao họ không nhận. Tôi bèn viết
lại cẩn thận hơn, và gửi đăng Annals of Maths, thế là được Annals nhận
đăng.
Làm khoa học ra được kết quả đã là việc vất vả, làm xong rồi lại phải
gắng sức đi quảng cáo cho kết quả của mình cũng là việc rất vất vả, trừ
khi mình là học trò của ông X ông Y nào to tướng đã quảng cáo hộ mình
rồi. Trong khi đó, học trò ông X ông Y viết ra bài “lăng nhăng” có khi
cũng được đăng ở Inventiones. Đời luôn có những bất công như vậy, không
chỉ trong cuộc sống hàng ngày có bất công, mà trong toán cũng có thể có,
các bạn trẻ nên biết trước để khỏi bị sốc khi gặp phải. Đối với tôi
hiện tại, việc đăng được bài báo ở đâu đó không còn mấy quan trọng nữa,
có hay không có không thay đổi gì mấy. Có những bài tôi viết ra lâu rồi,
để trên arxiv mà không gửi đăng ở đâu cả. Tuy nhiên, đối với các nghiên
cứu sinh và các nhà khoa học trẻ đang cần được thăng tiến, thì nên nhằm
hướng đến đăng tại các tạp chí tốt nhất có thể.
Kể cả khi đã thành GS, tôi vẫn bị cái số “vừa làm kỹ sư vừa đi bán
thịt bò” chi phối. Vào cuối năm 2007 đầu năm 2008, tôi có làm về lĩnh
vực tài chính cho một công ty trong một thời gian, với một mức lương khá
tốt và thêm nhiều hứa hẹn này nọ, nếu tốt đẹp thì tôi có thể xin trường
cho tạm nghỉ việc vài năm để chuyên tâm vào lĩnh vực đó. Nhưng “ở trong
chăn mới biết chăn có rận”, làm vài tháng là tôi thấy có quá nhiều vấn
đề, và đặc biệt là “rủi ro về mặt đạo đức”, nên cuối cùng cái chân “giáo
khổ trường công” vẫn là “nghèo nhưng mà sang”, là chỗ dựa an toàn của
mình. Thực ra thì công việc làm GS không có gì đáng phàn nàn: nếu không
quá bận tâm vấn đề kinh tế, thì việc dạy học không đến nỗi vất vả, và
ngoài ra còn có nhiều thời gian tự do để nghiên cứu hay làm cái mình
thích. Sau nhiều năm leo qua các bậc lương và trở thành “giáo sư hạng
nhất”, lương của tôi bây giờ cũng không đến nỗi nào, có thể sống được mà
không suốt ngày lo ngay ngáy về tiền nong, có thể thanh thản hơn.
Do quan tâm nhiều đến thị trường tài chính, mà tôi dần dần tìm hiểu
nhiều về lĩnh vực toán tài chính, và nhận ra được một điều rằng đây là
lĩnh vực ứng dụng rất quan trọng của toán, mà ở Viêt Nam đang rất thiếu.
Đặc biệt trong bảo hiểm và quản lý rủi ro tài chính. Phần lớn các khủng
hoảng tài chính là do yếu tố quản lý rủi ro không được coi trọng. Sự
coi thường rủi ro đó tất nhiên có nhiều nguyên nhân, ví dụ như người
quản lý tiền càng ôm nhiều rủi ro lại càng có lợi cho anh ta (và thiệt
cho tiền mà anh ta quản lý). Tất cả những thứ đó đều có thể được mô hình
hóa và giải quyết bằng các công cụ toán học. Bởi vậy tôi muốn góp phần
vào việc phát triển ngành này ở Việt Nam, đem lại một trong các ứng dụng
thực tiễn của toán học cho Việt Nam. Toán học rất quan trọng, nhưng nó
chỉ thực sự quan trọng khi chúng ta biết cách ứng dụng nó.
Ngày nay thì tôi quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề về tổ chức và thể
chế của xã hội, và các vấn đề về giáo dục. Sau gần 40 năm thống nhất đất
nước, mà Việt Nam bị tụt hậu so với các nước xung quanh (Hàn Quốc, Đài
Loan, v.v. sau 40 năm như vậy là họ đã vươn lên từ nước nghèo thành nước
phát triển), không thể đổ tội cho “ngoại cảnh” được nữa, mà lỗi chính
nằm ở đường lối sai lầm. Cần có những cải cách cơ bản về thể chế mới có
thể phát triển tốt được. Trong lĩnh vực giáo dục nói riêng, tôi cũng
thấy có rất nhiều điều cần thay đổi.
Hồi năm 2006-2007 tôi có làm phó viện trưởng phân Viện toán cơ bản
(gồm quãng 60 biên chế, trong đó 20 giáo sư, với thêm khoảng 40 phụ
giảng và nghiên cứu sinh) thuộc Viện Toán Toulouse (Viện Toán Toulouse
có 3 phân viện: toán cơ bản, xác suất thống kê, và toán cho công nghiệp,
tổng cộng gần 200 người, không kể phụ giảng và nghiên cứu sinh). Sau đó
do bận việc khác nên tôi xin thôi không tham gia làm quản lý nữa. Từ
01/2013 thì tôi sẽ lại làm viện trưởng của Phân viện Toán cơ bản ở
Toulouse. Việc làm quản lý này sẽ mất nhiều thời giờ, nhưng là một việc
làm đóng góp cần thiết cho tập thể. Hơn nữa, khi tham gia làm quản lý,
tôi hy vọng các đề xuất cải cách của mình sẽ được chú ý lắng nghe hơn.
Con trai đầu của tôi năm nay đã vào học ở ENS Paris, được nhận lương
tập sự của chính phủ, cũng là một niềm vui, và có thể coi là từ nay nó
đã độc lập được về tài chính, không còn cần nhờ đến bố mẹ nữa. Con gái
thì đang học lớp 9. Cuộc sống ở Toulouse rất thanh bình.
Toulouse, 11/2012.http://zung.zetamu.net/2012/11/blacksheep/comment-page-5/#comment-67525