
Thế là Lê Đức Thông lại bị đem ra … ném đá. Sự việc những bài báo của Lê Đức Thông bị rút lại do đạo văn xảy ra đã 2 năm rồi, nhưng chẳng hiểu sao nay báo chí lại rầm rộ đem LĐT ra đập thêm một trận. Kể ra cũng tội nghiệp cho anh chàng trẻ, nhưng còn đồng nghiệp khác của anh ta thì sao?
Báo Tuổi Trẻ có bài “phong” cho Lê Đức Thông là Vua đạo văn. Cần nói thêm rằng mấy năm trước đây, Tuổi Trẻ có bài ca ngợi Lê Đức Thông (nhưng bây giờ đã rút xuống, tuy còn bài liên quan thì vẫn còn). Tôi thì nghĩ phong cho LĐT ngôi vị vua đạo văn thì hơi quá. Trong thực tế, LĐT chỉ copy vài đoạn văn trong phần dẫn nhập và bàn luận trong hai bài báo (đã bị rút lại). So với những người có đầy đủ chức danh khoa bảng copy cả chương sách, thậm chí nguyên một cuốn sách, thì qui mô vi phạm đạo đức khoa học của LĐT còn quá nhỏ. Vậy mà Tuổi Trẻ không biết vì lí do gì gắn cái vị trí mỉa mai đó cho LĐT. Thật đáng tiếc!
Tại sao ?
Hôm nay, Tuổi Trẻ lại đi thêm một bài Đồng tác giả khó chối bỏ trách nhiệm. Tôi thấy đồng tình với phần lớn nội dung bài này. Tôi cũng nghĩ những người đứng tên tác giả trong bài báo của Lê Đức Thông cũng có trách nhiệm. Dĩ nhiên, đứng tên tác giả bài báo không chỉ có nghĩa là đồng ý với nội dung bài báo, mà còn phải có trách nhiệm xã hội. Nhưng trong trường hợp bài báo của Lê Đức Thông, tất cả các đồng tác giả đều nói rằng họ không hề hay biết tên của họ có trong bài báo! Sự việc kể ra cũng khó hiểu (đúng như lời của Ts Hoàng Dũng và Ts Lâm Quang Vinh nói). Bài báo đã công bố từ năm 2010, ấy thế mà họ nói không biết tên mình xuất hiện trong bài báo! Thật ra, có tác giả dùng bài báo đó để được giải thưởng của trung tâm họ đang công tác. Do đó, phủi tay nói không hề hay biết thì e rằng khó thuyết phục.
Theo thông lệ công bố bài báo khoa học thì tất cả các tác giả phải biết mình là tác giả. Những tập san mà tôi hoặc phụ trách trong ban biên tập, hoặc từng nộp bài công bố, có qui trình chuẩn như sau:
(a) Tác giả nộp bài. Hiện nay, tất cả đều nộp qua mạng, và vì qua mạng, danh sách tất cả tác giả, cộng với địa chỉ làm việc, địa chỉ email, phone, fax, v.v. phải cung cấp. Không có những thông tin này, tập san không nhận bài báo.
(b) Thông báo. Sau khi nộp bài đúng theo qui trình, hệ thống điện tử của tập san sẽ gửi một email (như là “biên nhận”) cho TẤT CẢ các tác giả trong bài báo.
(c) Bình duyệt. Nếu ban biên tập thấy bài báo có triển vọng, họ sẽ gửi cho 3 chuyên gia bình duyệt (peer-review).
(d) Trả lời. Sau đó tác giả sẽ trả lời những bình luận của 3 chuyên gia bình duyệt. Có thể ban biên tập sẽ gửi trả lời của tác giả cho các chuyên gia bình duyệt. Qui trình qua lại này có thể xảy ra đến 3 lần!
(e) Quyết định. Ban biên tập sẽ dựa vào bình duyệt và đề nghị của các chuyên gia bình duyệt VÀ trả lời của các tác giả, để đi đến quyết định chấp nhận hay từ chối bài báo.
(f) Chuyển giao bản quyền. Sau khi ban biên tập chấp nhận bài báo, nhà xuất bản sẽ làm việc với các tác giả. Trong giai đoạn này, các tác giả phải kí một Copyright Transfer, đồng ý chuyển nhượng bản quyền cho nhà xuất bản. Ngoài ra, trong ngành y, các tác giả còn phải kí tên tuyên bố hoặc kê khai tất cả những “conflict of interest” (như có cổ phẩn trong các công ti dược, làm tư vấn cho các công ti, v.v.)
Nhìn qua qui trình trên, tất cả các tác giả phải biết mình có dính dáng đến bài báo. Biết ngay từ lúc bài báo được nộp. Các giai đoạn bình duyệt và trả lời thì có thể chỉ tác giả chính phụ trách, nhưng chắc chắn các tác giả phải kí bản chuyển nhượng bản quyền.
Nhưng đó là qui trình những tập san lớn. Đối với tập san nhỏ, có thể họ không có qui trình chặt chẽ như thế. Chẳng hạn như tập san mà LĐT nộp bài, tôi được biết chỉ cần một tác giả chính đại diện kí chuyển giao bản quyền là đủ. Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao trong giai đoạn nộp bài mà các tác giả không hề hay biết. Thật khó giải thích! Dù sao đi nữa, sự việc cũng phản ảnh phần nào về sự thất bại trong qui trình xuất bản của tập san khoa học.
Kết liễu tương lai một cá nhân
“Lê Đức Thông - Kẻ ‘đạo văn’, bôi bẩn tên các nhà khoa học Việt Nam”. Đó là tựa đề của một bài báo trên báo mạng Giáo dục Việt Nam. Chữ kẻ nghe thấy rợn người và cảm tính. Tôi không hiểu tại sao hai chữ đạo văn đặt trong ngoặc kép. Tôi càng không hiểu nổi tại sao một cá nhân, một người trẻ chưa có chức danh khoa học gì, và cũng có thể nói là chưa thành danh, mà lại bôi bẩn các nhà khoa học Việt Nam. Bôi bẩn ai? Hai giáo sư Hwang Woo-Suk, Kim Tae Kook phạm tội nguỵ tạo dữ liệu (tức còn nặng hơn tội đạo văn) mà có ai nói rằng họ bôi bẩn các nhà khoa học Hàn Quốc đâu. Mà, có thật là tất cả các nhà khoa học Việt Nam đều thánh thiện, đều không đạo văn, đều không phạm phải sai sót trong nghiên cứu?
Dĩ nhiên, tình trạng đạo văn không chỉ xảy ra ở Việt Nam, hay cá nhân ai đó, mà còn rất phổ biến trên thế giới. Theo tập san Nature, trong một số ngành khoa học, nạn đạo văn có thể lên đến 20% trong các bài báo đã công bố. Hai tác giả Schein và Paladugu truy tìm 660 bài báo đã công bố trên 3 tập san hàng đầu trong ngành phẫu thuật và phát hiện khoảng 12% bài báo có cấu trúc giống nhau, 3% sử dụng từ ngữ hoàn toàn giống nhau, và khoảng 8% sử dụng từ ngữ rất giống nhau. Hai tác giả còn phát hiện khoảng 14% các công trình nghiên cứu này thuộc vào loại “tự đạo văn” hay “tự đạo số liệu”!
Thật ra, so với những trường hợp khác thì trường hợp của LĐT chỉ là … chuyện nhỏ. Một trường hợp đạo văn gần đây chẳng những cực kì trắng trợn và … thô. Năm 2000, hai tác giả nguyên là nghiên cứu sinh Việt Nam tại Nhật và một tác giả người Nhật công bố bài báo có tựa đề là “Ship’s optimal autopilot with a multivariate auto-regressive exogenous model” trong hội nghị về ứng dụng tối ưu hóa tại Nga. Đến năm 2004 bài báo đó được xuất hiện trong một hội nghị cũng về ứng dụng tối ưu hóa tại Nhật nhưng với một tựa đề na ná “An optimal ship autopilot using a multivariate auto-regressive exogenous model” với 10 tác giả từ Việt Nam! Điều khó tin là 99% câu chữ, 100% các số liệu, thậm chí hình ảnh con tàu Shioji Maru trong bài báo năm 2004 lấy nguyên vẹn từ bài báo năm 2000. Thật ra, trường hợp này đã vượt ra ngoài định nghĩa của đạo văn một mức. Có thể nói đây là một “scientific hijack” – tức là chiếm đoạt công trình khoa học. Khi tác giả bài báo gốc liên lạc với các tác giả bài báo năm 2004 để tìm hiểu thêm nguyên do và lời giải thích, thì sự việc rơi vào im lặng. So trường hợp này với các đoạn văn mà LĐT lấy nhưng không ghi nguồn thì thấy báo chí có vẻ bất công với LĐT.
Nhưng cách hành xử làm tôi quan tâm hơn. Qua những bài báo quá hăng hái của giới báo chí, tôi nghĩ sự nghiệp của LĐT coi như … tiêu tan. Câu chuyện này làm tôi nhớ đến câu chuyện xảy ra vào năm 2004. Đó là một trường hợp đạo văn gây sự chú ý trong giới khoa bảng vì thủ phạm là một giáo sư thuộc một trường đại học danh giá nhất thế giới: Đại học Harvard. Sultan là một giáo sư miễn dịch học tại trường y thuộc Đại học Harvard đạo văn từ 4 bài báo của các nhà khoa học khác, và khi bị phát hiện ông thú nhận rằng ông đạo văn từ những bài báo ông bình duyệt. Sau khi điều tra, ông bị cấm bình duyệt trong vòng 3 năm. Ở Mĩ người ta xử có tình có lí như thế; còn ở VN, chỉ cần báo chí xử là tương lai của LĐT coi như đi vào ngõ cụt! Sao lại tỏ ra dã man với một người trẻ như thế?
Nên tìm cái gốc
Tôi nghĩ thật quá dễ để kết tội một cá nhân, nhưng vấn đề là phải tìm cái gốc của vấn đề. Tôi nghĩ rằng nhiều bạn nghiên cứu sinh VN đạo văn là vì họ không hiểu thế nào là đạo văn. Có lần, một em nghiên cứu sinh gửi tôi một đề cương, mà trong đó em lấy gần 3 trang từ cuốn sách của tôi nhưng không ghi nguồn. Đã đạo văn mà còn gửi cho đọc! Tôi không nghĩ vậy, mà nghĩ rằng em này không hiểu như vậy là đạo văn. Có nhiều trường hợp, có em nói rằng thấy câu văn hay quá, hay đến nổi không có cách naò viết lại cho chuẩn hơn, và thế là ... copy (mà "quên" ghi nguồn). Trong trường hợp này, có thể nói là do tiếng Anh kém cộng với chưa am hiểu thế nào là đạo văn (như dùng bao nhiêu chữ trong câu văn của người ta), và đó là một yếu tố nguy cơ đạo văn.
Mới đây, một số nhà nghiên cứu khảo sát trên 152 sinh viên Úc và 90 du học sinh người Trung Quốc, Hàn Quốc, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Singapore, và Nhật. Họ phát hiện rằng hơn 50% những em này có kiến thức về đạo văn, 92% sinh viên Úc và 78% du học sinh cho rằng recycling (tức dùng một bài nộp cho nhiều khoá học khác nhau) không phải là đạo văn! Đọc bài "Plagiarism across cultures: is there a difference" của Joel Bloch (Indonesian Journal of English Language Teaching 2007; 3:139-151) thấy bà Bloch có thuật lại một chuyện cá nhân khi bà tiếp xúc với bố chồng (là người Tàu) và phát hiện rằng quan điểm về đạo văn ở Trung Quốc rất khác với Mĩ. Bài viết phân tích khá dài những quan điểm về đạo văn, những khó khăn trong định nghĩa thế nào là đạo văn, và kết luận rằng sinh viên đạo văn là do không hiểu thế nào là đạo văn. Bài viết còn nói về vấn nạn quen hô khẩu hiệu, quen lặp lại những gì giới tuyên truyền chính trị viết trong thời "Cách mạng văn hóa" như là một tiền đề (yếu tố nguy cơ?) của đạo văn. Bà có trích câu của Khổng Tử nói "I transmit rather than create" (tôi chuyển tải hơn là sáng tạo [ra tri thức]) để nói về cách thức học thuộc lòng là một yếu tố làm cho sinh viên học sinh Á châu không nhận thức đúng về đạo văn (theo quan điểm phương Tây).
Sự việc 7 bài báo của LĐT bị rút lại là một điều đáng tiếc và nghiêm trọng. Dĩ nhiên, LĐT đã trả cái giá quá đắt cho sai lầm của mình. Nhưng tôi nghĩ cái hệ thống mà LĐT là một thành viên cũng có phần trách nhiệm. Những tác giả có tên trong những bài báo và từng hưởng lợi từ những bài báo đó cũng không thể phủi tay như không có trách nhiệm gì trước sự việc. Nhìn chung và toàn cục, trường hợp LĐT chỉ là một trong hàng trăm, thậm chí hàng ngàn, trường hợp đã, đang, và sẽ xảy ra ở Việt Nam. Vấn đề không phải là nhắm vào một thủ phạm (hay nạn nhân?) để thoả mãn tâm lí đổ thừa, mà phải đi tìm cái môi trường sản sinh ra vấn đề và làm sạch cái môi trường đó.
Theo blog nguyenvantuan.net