Toán học và khoa học
Vai trò quan trọng của toán học trong khoa học thì tôi nghĩ không có gì để bàn cãi. Toán học được xem là “hoàng tử” của khoa học, dù có không ít nhà toán học phê bình rằng toán hiện đại là một ngành vô dụng (“modern mathematics is completely useless”) mà tôi nghĩ là quá nặng nề. Toán học không hề vô dụng, chỉ có việc ứng dụng toán cỡ nào mà thôi. Nhưng vai trò của toán quan trọng cỡ nào thì còn tuỳ thuộc vào trình độ khoa học của một nước. Ông Koblitz cũng có nói đến ý này: “[…] việc áp dụng toán trong ngành công nghiệp phải dựa trên nền tảng khoa học vững chắc. Công chúng và những lãnh đạo ngành không nên bị đưa cho bức tranh phóng đại về khả năng của toán học.” Quá chính xác! Một nước mà nền khoa học chưa phát triển cao thì rất khó ứng dụng thành tựu nghiên cứu toán học. Do đó, không ngạc nhiên khi nhiều nhà khoa học Việt Nam không xem toán học đóng vai trò gì trong việc làm của họ. Một nền toán học xa rời với khoa học thực nghiệm thì rất khó thuyết phục đồng nghiệp khoa học về sự hữu ích của toán.
Tôi nghĩ khoa học VN hiện nay rất cần toán và thống kê học. Từ nông nghiệp, vật lí, hoá học, y khoa, sinh học, đến khoa học xã hội, tất cả đều cần đến toán và thống kê. Nhưng họ cần toán và thống kê không phải loại đang làm ở VN, mà là loại bên Mã Lai và Thái Lan làm. Thử tưởng tượng một nhà khoa học nông nghiệp làm thí nghiệm, họ cần phải chọn mô hình thí nghiệm trên ruộng, họ cần tính toán tối ưu hoá các yếu tố thí nghiệm, họ cần phải làm mô phỏng để biết khả năng thành công của thí nghiệm ra sao, và khi xong thí nghiệm, họ cần phương pháp để phân tích dữ liệu. Tất cả những khía cạnh đó – không ít thì nhiều – đều cần đến thống kê. Thế nhưng hiện nay các đồng nghiệp khoa học phải “tự bơi”, vì đồng nghiệp toán và thống kê chẳng giúp gì cho họ. Mà, muốn giúp cũng chẳng làm được, vì VN thiếu các nhà khoa học toán và thống kê có kinh nghiệm khoa học. Ngày xưa thì toán học có thể đi trước khoa học thực nghiệm, còn ngày nay thì khoa học thực nghiệm đi trước toán học. Rất nhiều vấn đề về di truyền học mà toán học chỉ đi sau. Nếu toán học muốn có tác động đến khoa học thì nhà toán học cần phải học cách làm khoa học thực nghiệm. Do đó, tôi rất đồng cảm với ông Koblitz khi ông đề nghị “VIASM nên khuyến khích giới làm toán tham vấn cho các ngành nghề, và đồng thời cũng phải kiểm soát chất lượng tư vấn.” Nhưng đừng quá kì vọng và đánh giá cao toán học. Rất nhiều vấn đề thực tế, toán học không giải quyết được. Có những thuật toán một thời được xem là “thời thượng” (như neural network) nhưng khi đưa vào ứng dụng thì chẳng ai hiểu kết quả là gì! Ngay cả chính nhà toán học cũng không hiểu kết quả của họ có ý nghĩa gì.
Nói cho cùng, làm cái gì cũng phải có cái mà tiếng Anh gọi là impact – tác động. Việc làm phải có tác động tích cực. Bác sĩ điều trị bệnh nhân là một tác động tích cực. Thầy cô dạy học cũng là một tác động tích cực. Nhưng tác động của nghiên cứu khoa học thì khó đánh giá hơn. Hôm nọ, viện trưởng mới của viện Garvan trong bài diễn văn nhậm chức ông nói đại khái rằng viện nghiên cứu của chúng ta (ý nói Viện Garvan) không nên tồn tại nếu công trình nghiên cứu của viện không gây tác động tích cực đến xã hội và y khoa. Ông nói thêm rằng nếu các anh chị ở đây cảm thấy công việc của mình không có ảnh hưởng gì, thì nên suy nghĩ lại có nên làm việc ở đây. Năm nay, nghe nói trong tất cả các cuộc phỏng vấn ứng viên cho chức danh fellow của NHMRC, ai cũng bị hỏi “Anh/chị nói cho tôi nghe nghiên cứu của anh/chị đem lại lợi ích gì cho thực tế y khoa và chính sách y tế công cộng”. Chẳng những hỏi như thế, họ còn đòi đánh giá tác động phải bằng các chỉ số bibliometrics, chứ không phải nói suông, nói chung chung. Câu hỏi này bắt buộc tất cả các ứng viên phải suy nghĩ và tự mình nhìn lại mình. Tôi nghĩ một cách đánh giá không nhân nhượng như thế cũng có thể áp dụng cho bất cứ lĩnh vực nào, bất cứ cơ quan nào.
Trong bài “góp ý” của Gs Koblitz có nói một ý mà tôi từng nói trước đây. Ông viết rằng Viện toán cao cấp “không nên trả tiền hậu hĩnh cho người nước ngoài và không nên đài thọ vé máy bay cho họ.” Trong bài trước (Tiền và toán học) tôi cũng có nói rằng ở Úc, không có chuyện tài trợ cho nghiên cứu mà có khoản mời nhà khoa học đến để giảng (nhưng có quĩ để mời người ngoài đến làm seminar). Đại đa số các seminar ở viện tôi đều là những hoạt động tự nguyện của người đến giảng, chứ chẳng có ai trả tiền vé máy bay. Cố nhiên, phải phân biệt seminar và workshop. Trong workshop thì người đến giảng được trả vé máy bay, khách sạn, và thậm chí họ tính … từng giờ. Chính vì thế mà các workshop trong ngành y, người học phải đóng vài trăm USD để dự.
Nhưng ông Kobltiz còn nói một ý mà tôi nghĩ rất khó thực hiện. Ông viết “Các nhà toán học thỉnh giảng nên dùng ngày nghỉ của mình và tiền của chính phủ nước họ. VIASM nói chung chỉ nên có sự giúp đỡ mang tính địa phương - ví dụ một phòng trọ trong nhà khách.” Làm sao họ có tiền để đến VN giảng? Ai tài trợ cho họ? Tôi còn nhớ khi dự phỏng vấn fellowship, một người trong hội đồng phỏng vấn hỏi tôi một cách khiêu khích: Ông nghĩ có công bằng không nếu chúng tôi tài trợ fellowship cho ông để ông đi giúp các nước khác? Chính phủ Úc đâu có hào hiệp đến nổi cấp tiền cho giáo sư của họ đi làm việc cho các nước ngoài Úc. Chẳng hạn như cá nhân tôi, trong thực tế, những chuyến tôi đi nói chuyện hay giảng trong workshop đây đó chỉ là … dạng “ăn ké”. Chuyến đi do các công ti dược tài trợ (qua những cơ quan quản lí expert toàn cầu của họ) hoặc vài quĩ quốc tế tài trợ, và tôi chỉ tận dụng cơ hội để giảng thêm đây đó vài ngày. Phải cám ơn các công ti dược và các quĩ quốc tế ở đây, vì đó cũng là cách họ giúp nhà khoa học. Do đó, đề nghị trên của ông Koblitz hơi thiếu thực tế, vì chẳng có chính phủ nào tài trợ cho nhà khoa học của họ đi giảng chỗ khác cả. Phải ghi nhận một thực tế: mình cần họ, chứ họ đâu cần mình! Cần họ thì phải trả tiền cho họ.
Những ồn ào gần đây làm tôi chợt nhớ câu chuyện những gánh mãi võ sơn đông ở dưới quê. Khi gánh hát mới xuất hiện, họ làm bọn nhỏ như tôi loá mắt với những màn trình diễn ảo thuật, nhưng dần dần tôi cũng nhận ra họ chỉ là mãi võ để buôn bán một món hàng nào đó mà thôi, chứ phần lớn màn trình diễn chỉ là ảo thuật. Cũng giống như khi một viện hay trung tâm mới ra đời, người ta đặt nhiều kì vọng, vì những tuyên bố rất đẹp, rất lí tưởng. Nhưng kinh nghiệm thực tế trong những năm qua, chúng ta thấy những viện và trung tâm mới ra đời, sau một thời gian ồn ào, rồi cũng chẳng gây tác động gì đáng kể.
Nói tóm lại, tôi nghĩ một cách thực tế nhất là đừng kì vọng gì ngành toán có thể vực dậy khoa học VN. Khoa học phải tự mình cứu mình, chứ đừng trông chờ gì đến toán học. Cũng không nên kì vọng quá cao vào viện toán cao cấp. Thật ra, trong bối cảnh hiện nay, không nên kì vọng vào bất cứ cái viện cao cấp nào, và càng không nên quá tin vào những tuyên bố quá đẹp. Những góp ý của ông Koblitz, do đó, rất đáng để chúng ta suy nghĩ cho tương lai khoa học VN.
NVT